DNTN TM Nhôm - Sắt Đại Phúc Linh

email: lephuc.business@gmail.com

TEL: 0937655551 Mr PHÚC - 0983994326 Mrs LINH

VĂN PHÒNG : THIÊN PHƯỚC P9 TÂN BÌNH, TP.HCM






Doanh nghiệp QTH chúng tôi chuyên cung cấp các loại thanh nhôm định hình cao cấp theo công nghệ tiên tiến nhất hiện nay. Qua nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực này, công ty chúng tôi không ngừng phát triển về mọi mặt để cho ra đời những sản phẩm đạt chất lượng tốt nhất.Với hơn trên dưới 200 kiểu dáng sản phẩm khác nhau theo từng nghành nghề đáp ứng hầu hết nhu cầu của khách hàng trong mọi lĩnh vực như : xây dựng, trang trí nội ngoại thất và những sản phẩm phục vụ công nghiệp trong và ngoài nước. Đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu quý khách hàng doanh nghiệp còn nhận thêm gia công theo khuân mẫu, sơn tĩnh điện...Quý khách có thể tham khảo thêm từ trang Wed

nhôm hộp đèn quảng cáo

Danh sách các sản phẩm như sau:

- nhôm thanh hộp đèn led làm quảng cáo các loại led 3 phân, led 5 phân, led 7 phân, led 8 phân (led 3D), led 9 phân, led siêu mỏng, led matrix,....




- nhôm thanh V các loại kích thước từ v15 đến v5, độ dày mỏng khác nhau liên hệ mình để biết thêm chi tiết.



================================================== ================================================== ================================================== ================================================== ==Nhôm là kim loại nhẹ quan yếu nhất trong cuộc sống con người và là một trong bốn kim loại màu căn bản. Hiện tại , nhôm và các hợp chất của nhôm được sử dụng thông đạt các ngả trong nhiều lĩnh vực sản xuất và đời sống như chế tác phi cơ , ôtô , kỹ thuật điện , xây dựng , sản xuất gạch chịu nhiệt , làm ra sơn , phèn , dụng cụ Nhà ở , ... Về khối lượng sử dụng , nhôm chỉ đứng sau thép. Nhôm còn được sử dụng nhiều trong công nghiệp tài tực , nên được coi là một trong những kim loại chiến lược.



>> Bài liên quan: Từ bauxite đến nhôm



Phát triển Công lao nhôm sẽ góp phần công nghiệp hóa và hiện đại hóa núi sông , tạo điều kiện phát triển các ngành Công lao liên tưởng ở trung ương và địa phương , phát triển kinh tế tầng lớp , nâng cao dân trí cho đồng bào vùng miền núi. Công lao nhôm phát triển sẽ góp phần tăng kim ngạch xuất cảng , cân đối ngoại tệ , tăng thu ngân sách , tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho hàng vạn người lao động.



Nếu chỉ tính riêng ngoại tệ để nhập nhôm kim loại , hàng năm nước ta phải chi một lượng ngoại tệ lớn như sau:



Năm 2000 : khoảng 160 triệu USD



Năm 2005 : khoảng 250 triệu USD



Năm 2010 : khoảng 390 triệu USD



Năm 2015 : khoảng 480 triệu USD



Trong thiên nhiên , do hoạt tính cao nên nhôm chỉ tồn tại ở dạng các hợp chất , chủ yếu trong các loại khoáng là felspat ( trường thạch ) và glimme cũng như sản phẩm phong hóa của chúng là các loại đất sét. Trong số các felspat và glime gồm có : kali felspat ( KAlSi 3 O 8 , natri felspat ( NaAlSi 3 O 8 ) , canxi felspat CaAl 2 Si 2 O 8 , muscovit KAl 2 ( AlSi 3 O 10 )( OH , F ) 2 , margarit CaAl 2 ( Al 2 Si 2 O 10 )( OH ) 2 , zyanit Al 2 O( SiO 4 ) , ... Trong số các loại đất thó chứa nhôm thì quan yếu nhất là boxit với thành phần nông dân là hổ lốn các khoáng nhôm hydroxit khác nhau , tiếp theo là cao lanh có thành phần nông dân chủ yếu là Al 4 ( OH ) 8 Si 4 O 10 , kryolit với thành phần là Na 3 ( AlF 6 ) , và một số khoáng đất sét chứa nhôm với hàm lượng canxi , manhê hoặc sắt oxit cao.



I. QUẶNG BOXIT



Boxit là nham thạch có màu từ trắng đến đen , chính yếu là hổ lốn các hợp chất vô cơ và nhôm hydoxit. Loại boxit thường gặp có vẻ đan. Các loại hình quặng boxit quan yếu là bơsmit , gipsit ( hydragilit ) , diaspo , alumogel.



Boxit có thành phần nông dân tương đối phức tạp , nhưng cốt tử là hổ lốn các khoáng nhôm hydroxit , thường bị nhiễm bẩn bởi sắt oxit ( tạo ra vẻ đan cho quặng ) hoặc silic oxit. Thành phần nông dân hóa học của boxit sờn lòng giữa 50-63% Al 2 O 3 , 12-32 % H 2 O , 15-25 % Fe 2 O 3 , 2-10 % SiO 2 và 2-5 % TiO 2 .



Hàm lượng nhôm oxit và silic oxit là những yếu tố quyết định chất lượng của quặng boxit.



Nhôm oxit trong quặng boxit chủ yếu ở trong thành phần của hydroxit như diaxpo , bơmit , gipsit hoặc bayerit. Ngoại giả , nhôm oxit trong boxit còn có thể ở dạng corundum và trong thành phần khoáng của nhóm caolinit.



Silic oxit trong quặng boxit nằm ở trạng thái tự do , nhưng cũng có thể trong thành phần nông dân khoáng alumosilicat và aluomopherosilicat. Silic oxit có có tác động đến một điều gì đó bất lợi cho quá trình hòa tan quặng boxit , vì nó gây nên natri alumosilicat ít tan , làm tăng tiêu hao kiềm và nhôm , đồng thời làm tắc đường ống và thiết bị.



Sắt trong quặng boxit có xác xuất thuộc vào các nhóm sau:



- Nhóm oxit và hydroxit bao gồm hematit ( a -Fe 2 O 3 , g -Fe 2 O 3 ) , hydrohematit ( Fe 2 O 3 aq. ) , manhêtit ( Fe 3 O 4 ) , hetit ( HFeO 2 ) , limonit ( HFeO 2 aq. ).



- Nhóm cacbonat bao gồm siderit FeCO 3 , ankerit Ca( MgFe( CO 3 ) 2



- Nhóm silicat gồm samozit với thành phần nông dân chính yếu là FeO , Al 2 O 3 , SiO 2 .



- Nhóm sulfit và sunfat như FeS 2 , FeSO 4 .7H 2 O , Fe( SO 3 )( OH ).2H 2 O , KFe( SO 2 )( OH ) 3 .



Titan oxit trong quặng boxit cũng ở thể trạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc là rutin và anataz , hoặc ở các dạng hợp chất khác nhau như sphen CaTiO 2 SiO 2 , perobskit CaTiO 3 , ilmenit FeTiO 3 . Các hợp chất titan có xác xuất ảnh hưởng gây thiệt hại cho quá trình hòa tan nhôm..



1. Tiềm n ăng qu ặng boxit của Việt Nam:



Cuối cùng thăm dò địa chất đã phát hiện trên cương vực nước ta có trữ lượng quặng boxit phong phú ở cả Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam. Tổng trữ lượng quặng boxit của Việt Nam ước lượng khoảng 8 tỷ tấn , trong đó có 7 , 6 tỷ tấn ở các tỉnh Tây Nguyên. Với trữ lượng như vậy , nước ta đứng trong số các nước có trữ lượng boxit lớn trên thế giới.



Quặng boxit là nguồn tài nguyên lớn của nước ta , là cơ sở để hình thành ngành công nghiệp luyện nhôm , là nguồn lực quan yếu trong quá trình Công lao hóa , đương đại hóa đất nước.



mặc dầu nhôm kim khí là sản phẩm quan trọng cho ngành kinh tế quốc dân và nước ta có sẵn nguồn nguyên liệu cũng như các điều kiện khác để sản xuất nhôm kim khí ( thuỷ điện , nhân lực... ) nhưng hiện nay chúng tôi vẫn chưa làm ra được nhôm kim khí. Bởi vậy , một trong mục tiêu mà chính phủ đã đề ra là xây dựng mới ngành công nghiệp nhôm Việt Nam , đáp ứng nhu cầu nhôm trong nước , tranh thủ xuất cảng một phần sản phẩm sang các nước chung quanh , tạo cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu và đội ngũ quản lý , kỹ thuật , song song tích luỹ vốn để phát triển Công lao nhôm lâu dài với quy mô lớn , nhằm khai thác nguồn boxit sẵn có để xuất khẩu các sản phẩm alumin và nhôm.



Việt Nam có hai loại hình quặng boxit:



1/ Loại quặng bơsmit và diaspo , tập trung cốt yếu ở Miền Bắc Việt Nam , kết cấu ở các tỉnh Hà Giang , Cao Bằng , Lạng Sơn , Bắc Giang ). Tổng trữ lượng dự đoán khoảng trên 350 triệu tấn , hàm lượng nhôm nao núng trong khoảng 39-65 %. Modul silic ( Al 2 O 3 /SiO 2 ) bằng 5-8. Cụ thể , quặng boxit phân bố như sau:



- nhóm tụ khoáng Hà Giang: tài nguyên áng chừng khoảng 60 triệu tấn.



- nhóm tụ khoáng Cao Bằng: tài nguyên ước chừng khoảng 240 triệu tấn.



- nhóm tụ khoáng Lạng Sơn: tài nguyên đã được dò hỏi và ước chừng khoảng 50 triệu tấn.



- Mỏ Lỗ Sơn ( Hải Dương ) có trữ lượng cấp B là 97.000 tấn , trữ lượng cấp C 1 là 24.000 tấn , với hàm lượng như sau:



Al 2 O 3 : 52 %



SiO 2 : 6 , 4 %



Fe 2 O 3 : 26 %



TiO 2 : 2 %



CaO : 0 , 53 %



MgO : 0 , 24 %



Mất khi nung : 12 %



- Vùng Quỳ Hợp - Quỳ Châu có tài nguyên dự tính khoảng 1 triệu tấn với hàm lượng như sau:



Al 2 O 3 : 30 - 50%



SiO 2 : 2 , 12 - 36%



Fe 2 O 3 : 18 - 30%



2/ Loại quặng gipsit , tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên và Miền Nam Việt Nam , với tổng trữ lượng ước tính khoảng 7 , 6 tỷ tấn.



Trữ lượng quặng boxit đã được dò hỏi và chứng minh ở Tây Nguyên và Miền Nam Việt Nam là khoảng 2772 triệu tấn. Trong đó cụt lủn các lĩnh vực như sau:



* Tài nguyên vùng Đắc Nông - Phước Long khoảng 1.570 triệu tấn



* Tài nguyên boxit vùng Lâm Đồng tập kết ở hai tụ khoáng là Tân Rai và Bảo Lộc.



- Trữ lượng vùng khoáng Tân Rai khoảng 57 triệu tấn cấp C 1 , 120 triệu tấn cấp C 2 , hàm lượng như sau:



Al2O3 44 , 69 %

SiO2 2 , 61 %

Fe2O3 23 , 35 %

TiO2 3 , 52 %

Mất khi nung

24 , 3 %





- Trữ lượng vùng tụ khoáng Bảo Lộc khoảng 378 triệu tấn.



nói chung , quặng boxit nguyên khai ở Lâm Đồng đều có chất lượng không cao , hàm lượng Al2O3 chỉ khoảng 35 - 37%. Người ta phải tuyển rửa quặng nguyên khai để thu được tinh quặng giàu nhôm hơn. Sau khi tuyển , tinh quặng boxit ở các tụ khoáng Lâm Đồng cũng chỉ đạt hàm lượng 45 - 49% Al2O3.

ngoài ra , quặng boxit miền Nam còn có ở các vùng Kon Plong , Phú Yên , Quảng Ngãi , với trữ lượng khoảng 106 triệu tấn. Nhìn chung , boxit Việt Nam ở hồ hết các vùng đều có thể khai thác lộ thiên.



Tuy nhiên , trừ những khu mỏ lớn ở Lâm Đồng , trữ lượng quặng còn lại được phân bố dàn trải , vỉa quặng không dày và hầu hết đều nằm trong các vùng Cày cấy nông , lâm nghiệp , nên sẽ có những có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn nhất định trong quá trình khai thác để sản xuất nhôm quy mô lớn , do đụng chạm trực tiếp đến việc sử dụng đất Cày cấy , vấn đề thăng bằng nước mặt , Sự tình quặng thải , vấn đề nước thải và nói chung là vấn đề sinh thái.



2. Áp dụng



vận dụng cốt yếu của boxit là làm nguyên liệu cho Công lao luyện nhôm. Bộ môn công nghiệp làm ra nhôm kim khí tiêu thụ 85% quặng boxit trên toàn thế giới. Phần boxit còn lại được sử dụng trong hai khu vực là làm ra alumin chuyên dùng ( 10% ) , bao gồm alumin nung và alumin hoạt hóa , và sản xuất nguyên liệu chịu lửa ( 5% ) , ví dụ gạch chịu nhiệt , ximăng chịu lửa và các vật liệu mài.



II. QUẶNG CAO LANH



Quặng cao lanh là nham thạch mịn , tỷ trọng cao , chủ yếu gồm khoáng caolinit có lẫn tạp chất , được làm nên khi phong hóa các nham thạch felspat macma khác nhau. Cao lanh thuần khiết màu trắng tinh , nhưng quặng cao lanh không có gì lạ hoặc đặc biệt các màu khác nhau do nhiễm các tạp chất sắt và mangan. Thành phần hóa học chính yếu là Al 4 ( OH ) 8 Si 4 O 10 , với các tạp chất như thạch anh , muskovit , rutil , zircon , manhêtit và felspat chưa phong hóa hết. Quặng cao lanh hình thành do sự phong hóa các silikat nhôm , đặc biệt là các loại felspat. Phần nhiều quặng cao lanh tồn tại ở các mỏ nguyên sinh , đôi khi ở các mỏ thứ sinh , ít khi ở dạng đất sét.



1. Tiềm n ăng qu ặng cao lanh của Việt Nam:



Quặng cao lanh nước ta được phân bố ở nhiều nơi như: Lào Cai , Yên Bái , Phú Thọ , Thái Nguyên , Tuyên Quang , Hải Dương , Quảng Ninh , Đà Lạt , Đồng Nai , Sông Bé. Trong đó những mỏ quặng cao lanh đã được dò hỏi , khai thác là:



- Mỏ Thạch Khóan , Phú Thọ gồm 4 vùng với tổng trữ lượng đã rõ ràng khoảng 3 , 2 triệu tấn. Trong số đó , vùng mỏ cao lanh Hữu Khánh là vùng mỏ quý báu Công lao với hàm lượng quặng như sau:



Al 2 O 3 18 - 49%

SiO 2 47 , 5 - 76 , 1%

Fe 2 O 3 0 , 11 - 2 , 9%

Mất khi nung 9 , 81%







- Mỏ Trại Mật , Lâm Đồng , với tổng trữ lượng đã thăm dò là 11 triệu tấn. Mỏ có 4 thân quặng , dày trung bình 20 m. Hàm lượng làng nhàng như sau:



Al 2 O 3 18 - 49%

SiO 2 22 , 8 - 65%

Fe 2 O 3 0 , 5 - 7 , 9%

Mất khi nung 0 , 16 - 22 , 5%







Trong tổng trữ lượng đã được dò hỏi ở mỏ Trại Mật , khoảng 3 triệu tấn là có xác xuất khai thác tốt.







- Mỏ Bảo Lộc hiện đạt công suất khai khẩn , tuyển rửa là 35.000 tấn/năm. Chất lượng quặng boxit tinh sau khi tuyển rửa là:



Al 2 O 3 : 49%

SiO 2 : 2 - 3%

Fe 2 O 3 : 18 - 22%

TiO 2 : 3 - 4%

Hàm ẩm : 10%





- Các mỏ cao lanh Tấn Mài ( Quảng Ninh ) , Trúc Thôn ( Hải Dương ) , Tuyên Quang đã được khai thác dùng làm gạch chịu lửa cho công ty gang thép Thái Nguyên. Cao lanh Tấn Mài ở dạng dickit và có thành phần hóa học như sau:



Al 2 O 3 : 37 , 43%

SiO 2 : 43 , 88%

Fe 2 O 3 : 0 , 18%

TiO 2 : 0 , 03%

Na 2 O: 0 , 03%

K 2 O : 0 , 05%

P 2 O 5 : 0 , 09%

MgO: 0 , 15%

CaO: 0 , 21%





ngoại giả , một số mỏ quy mô nhỏ ở các Vùng đất như Yên Bái , Phú Thọ , Hải Dương , Đồng Nai , Sông Bé đã được sử dụng để khai khẩn cao lanh làm nguyên liệu làm ra gốm sứ dân dụng , gốm sứ kỹ thuật , phèn nhôm , ...







2. Áp dụng









Từ cao lanh thô khai khẩn ở các mỏ , người ta áp dụng các biện pháp như rửa bùn , tuyển nổi , thẩm thấu điện , ...để thu được cao lanh kỹ thuật.



Do những thuộc tính đặc biệt của nó ( dẻo ở trạng thái ẩm , rất cứng và bền sau khi nung ) nên cao lanh thường được sử dụng để sản xuất các sản phẩm gốm sứ. Ngoài ra , cao lanh cũng được sử dụng làm phụ gia bản xuất giấy ( tạo bề mặt nhẵn , hút mực ) , sản xuất các nguyên liệu chống thấm trong xây dựng , ... Cao lanh còn là vật liệu quan trọng để làm ra các hợp chất nhôm.







III. THỰC TRẠNG khai thác VÀ sản xuất









nhìn chung , các mỏ quặng boxit Việt Nam có những đặc trưng chính như sau:



phần ưu tú : Mỏ tự do tương đối lớn , lớp đất phủ mỏng , chiều dày lớp chứa quặng thay đổi từ 1 đến 12m , hoàn toàn có khả năng khai thác bằng thủ pháp lộ thiên , dễ dàng hoàn thổ và trồng lại rừng hoặc cây Công lao , quặng có hàm lượng nhôm oxit ở mức trung bình , quặng Miền Nam thuộc loại đơn thuần gipsit nên dễ xử lí ở nhiệt độ thấp , đầu tư không lớn , chi phí vận hành thấp. Tuy quặng nguyên khai có chất lượng không cao nhưng bằng biện pháp tuyển rửa đơn giản có thể nhận được tinh quặng có chất lượng tốt để sản xuất alumin theo biện pháp Bayer.



Nhược điểm : Lớp quặng mỏng nên khai giảng phát triển nhanh , Đại khái tuốt quặng đều cần phải được tuyển rửa nên mất mát nhiều nước. Đại khái các mỏ đều nằm xa cảng biển , hạ tầng cơ sở chưa phát triển.



Vì những điểm nêu trên nên theo quan điểm nhiều chuyên gia trong và ngoài nước , quặng boxit Việt Nam nếu xử lí tại chỗ để sản xuất alumin và nhôm thì chất lượng cao hơn mức bình thường hơn là xu ất khẩu quặng.



1. Sản phẩm nhôm kim khí



bây giờ , do chưa làm ra được nên chúng tôi phải nhập hết thảy nhôm. Trong tương lai , cùng với sự phát triển kinh tế , nhu cầu về nhôm kim loại sẽ ngày một tăng. Mặt khác , thịt thà nhập cảng nhôm ở các nước chung quanh cũng rất lớn. Điều đó đòi hỏi chúng tôi phải mau chóng phát triển công nghiệp khai khẩn boxit và luyện nhôm để đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng tới xuất khẩu nhôm khi có điều kiện.



Đối với quặng boxit ở lĩnh vực Lâm Đồng , là nơi có trữ lượng boxit lớn nhất , ngày nay chúng ta mới chỉ khai thác và sử dụng để sản xuất nhôm oxit và phèn nhôm.



Trong những năm qua , Tổng công ti khoáng sản Việt Nam và công ti Pechiney ( Pháp ) đã liên doanh tiến hành khảo sát tiền khả thi và thực hành dự án Tổ hợp boxit nhôm Lâm Đồng. Đây là một trong những dự án trọng điểm , có quy mô lớn. Cuối năm 2002 , UBND tỉnh Lâm Đồng đã chính xác khu vực khai thác mỏ , tuyển quặng và vịt đàn xây dựng các nhà máy alumin , điện phân nhôm trong tổ hợp.



Tổ hợp boxit-nhôm Lâm Đồng nằm ở địa bàn huyện Bảo Lâm ( khu khoáng sàng Tân Rai ) , có tổng vốn đầu tư hơn 667 triệu USD.



dự án boxit Lâm Đồng bao gồm hai giai đoạn:



- thời kì đầu từ 2003 đến 2013 , dự định tổ hợp boxit - nhôm sẽ đạt công suất hàng năm là 72.300 tấn nhôm điện phân , 300.000 tấn alumin ( trong đó 141 nghìn tấn để điện phân nhôm , còn lại sẽ xuất biên ) , khai thác mỏ 1.980.000 tấn quặng nguyên khai. -



- thời kì hai ( thời kì mở rộng ) từ 2013 trở đi , công suất sẽ được nâng lên gấp 2 lần , đạt 146.100 tấn nhôm điện phân , 600.000 tấn alumin ( trong đó 284 nghìn tấn để điện phân nhôm , còn lại sẽ xuất cảng ) và khai khẩn mỏ 3.960.000 tấn quặng nguyên khai.



Trong vài năm qua , 5 thân quặng số 46 , 51 , 52 , 53 , 54 tại lĩnh vực phía tây mỏ Tân Rai đã được tuyển trạch đưa vào khai khẩn phục vụ người ốm cho cả đề án , có diện tích 40 km2 , nằm cách thị xã Bảo Lộc 15 km , cách thành thị HCM khoảng 200 km , cách Đà Lạt 120 km. Đồng thời cũng đã để sẵn mặt bằng xây dựng nhà máy alumin và nhà máy điện phân nhôm thực dân địa phận thịt Lộc Thắng huyện Bảo Lâm , có diện tích khoảng 118 , 5 ha. Chuye khai khẩn mỏ và tuyển quặng có tổng diện tích 42 km 2 , nằm ở địa bàn thịt thà Lộc Thắng và hai xã Lộc Phú , Lộc Ngãi ( Bảo Lâm ).



Về công nghệ khai thác , trong quá trình khai thác sẽ tiến hành liên hoàn từ bóc đất phủ đến khai khẩn quặng , thực hiện theo công nghệ sử dụng bãi thải trong kết hợp với bãi thải ngoài. Boxit được khai khẩn cốt tử trên các đỉnh đồi nhằm hạ độ cao và độ dốc của đồi , tạo điều kiện cho việc tái hiện rừng và cây trồng cũng như phát triển kinh tế nông lâm nghiệp rồi đây. Trong quá trình khai khẩn và tuyển rửa , lượng bùn thải sẽ được lắng đọng trong của hồ nhân tạo. Nước được thải đi hoặc hồi lưu sau khi đã lắng trong.



Về công nghệ làm ra nhôm , tổ hợp boxit-nhôm Lâm Đồng vận dụng công nghệ điện phân tiên tiến của tập đoàn nhôm Pechiney theo phương thức chuyển giao công nghệ , sử dụng điện cực thiêu sẵn , nạp liệu điểm tự động , dòng điện 185 kA , bể điện phân AP-18. Đây là biện pháp điện phân nhôm nóng chảy theo công nghệ Hall-Heroult , tức thị điện phân alumin hòa tan trong dung dịch muối nóng chảy criolit ở nhiệt độ 950-960 o C. Phương pháp này là công nghệ sản xuất nhôm Công lao độc nhất , đã tồn tại hơn 100 năm nay. Làm ra alumin được thực hành theo phương pháp hoà tách ở 105 o C và áp suất khí quyển.



Về mặt giao thông vận tải , trong thời kì đầu quặng boxit khai khẩn được chuyên chở bằng đường bộ , chủ yếu theo tuyến 20. Rồi đây , trong giai đoạn mở mang sẽ xây dựng tuyến đường sắt Bảo Lộc - Thị Vải để xuất cảng alumin và nhập cảng nguyên vật liệu phù hợp cho tổ hợp.



Theo toan tính , sau 30 năm hoạt động , chỉ với công suất ban sơ dự án sẽ đóng góp cho quốc gia gần 328 triệu USD gồm thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế tài nguyên. Ngoại giả còn có các nguồn lợi khác như thu ngoại tệ từ xuất khẩu alumin và kiệm ước ngoại tệ do không phải nhập cảng nhôm ( 4709 triệu USD ). Dự án cũng sẽ có những đóng góp rất quan yếu cho sự phát triển kinh tế từng lớp của địa phương.



2. Các hợp chất nhôm



hiện tại trên 90% sản lượng Al 2 O 3 kỹ thuật trên thế giới được dùng để luyện nhôm , chỉ khoảng 10 % được sử dụng cho các lĩnh vực phi luyện kim. Do vậy vai trò của vật liệu giàu nhôm trở thành rất quan trọng đối với các ngành sản xuất gốm , thuỷ tinh , xi măng alumin , phèn nhôm , bột mài , cao su , .. , nhất là khi Việt Nam chưa có ngành công nghiệp riêng để sản xuất nguyên liệu này.



Nhôm oxit Al 2 O 3 là nguyên liệu được sử dụng nhiều để làm ra gạch chịu nhiệt , các sản phẩm sao thủy , gốm sứ và một số loại xi măng chịu lửa. Hàng năm nước ta phải nhập khoảng 10.000 tấn nhôm oxit.



Nguồn vật liệu alumin của nước ta , ngoài boxit Lâm Đồng còn có cao lanh Tấn Mài-Quảng Ninh , cao lanh Yên Bái , boxit Lạng Sơn và Quảng Ninh , ... Có xác xuất nói trữ lượng vật liệu cho Công lao tinh chế nhôm oxit của Việt Nam khá lớn nên ngành công nghiệp này có tương lai phát triển tốt.



Tại nước ta , năm 2001 công ty hóa chất cơ bản Miền Nam đã đầu tư dây chuyền sản xuất nhôm oxit có công suất 400 tấn / năm , ứng dụng công nghệ lò thoi đứt quãng từng mẻ. Chất lượng sản phẩm nhôm oxyt của công ti đạt hàm lượng Al 2 O 3 ≥ 99 , 1 % , hàm lượng sắt ≤ 0 , 1 %.



Nhôm oxit kỹ thuật thường được làm ra bằng cách nung nhôm hydroxyt ở những nhiệt độ khác nhau như sau :



- Sấy ở nhiệt độ dưới 300 o C : thu được Al 2 O 3 .3H 2 O dạng hydragilit



- Sấy tiếp ở 300-400 o C: thu được Al 2 O 3 .H 2 O dạng bơsmit



- Nung trên 500 o C : thu được g - Al 2 O 3 ( thành phần chính của nhôm oxit kỹ thuật bình thường )



- Nung trên 1000 o C : g - Al 2 O 3 chuyển hóa thành a - Al 2 O 3 ( corun , nhôm oxit kỹ thuật nung )



Hàm lượng Al 2 O 3 thu được có thể đạt tới 99 - 99 , 5% tuỳ theo phương pháp rửa và tinh luyện. Đặc biệt độ mịn , hàm lượng pha tinh thể a - Al 2 O 3 ( corun ) và mực độ chuyển hóa thành a - Al 2 O 3 phụ thuộc rất nhiều vào biện pháp nung và cách xử lý nhiệt.



Nhôm oxyt kỹ thuật làm ra theo phương pháp Bayer truyền thống chủ yếu chứa khoáng g - Al 2 O 3 . Đây là sản phẩm trung gian sau khi nung nhôm hydroxyt ở nhiệt độ trên 500 o C. Nhược điểm của sản phẩm loại này là hàm lượng tạp chất kiềm Na 2 O cao và khó tách , gây gây thiệt hại cho làm ra gốm và vật liệu chịu lửa. Khi sử dụng loại nhôm oxyt kỹ thuật này trong Công lao gốm sứ , người ta phải xử lý gia công rất phức tạp và tốn kém: phải nung sơ bộ ở nhiệt độ cao ( khoảng 1450 o C ) rồi nghiền mịn lại trong máy nghiền bi thép hoặc nghiền rung , tiếp theo phải rửa sắt bằng axit rồi rửa lại bằng nước sạch , rồi mới đưa vào sử dụng trong phối liệu gốm sứ.



Vào thập niên 1970 - 1980 , trên thế giới đã có nhiều công trình Học hỏi xử lí nhôm oxyt kỹ thuật dùng cho gốm và nguyên liệu chịu lửa , nhưng khi áp dụng thực tiễn thì chi phí làm ra quá lớn , hiệu quả không cao , giá thành sản phẩm cao nhưng chất lượng lại hạn chế. Sang thập niên 1990 , bằng những tiến bộ kỹ thuật , nhiều công ty hóa chất trên thế giới đã áp dụng thủ pháp sol-gel , sa lắng hóa học hoặc plasma hóa học để làm ra các loại Al 2 O 3 kỹ thuật nung với độ thuần khiết 99 , 7 % , hàm lượng tạp kiềm < 0 , 05 % , và đặc biệt là có cỡ hạt kích thước hoặc kết cấu cực kỳ nhỏ ( 5-10 mm ) với thành phần pha ≥ 95 % dạng a - Al 2 O 3 . Loại nguyên liệu này đã tạo ra bước đột phá trong Công lao gốm kỹ thuật , Cởi ra khả năng sản xuất các loại bê tông gốm ít xi măng , siêu ít xi măng hoặc không dùng xi măng thủy lực ( xi măng alumin ) , gốm cắt gọt , gốm bền nhiệt , bền cơ , gốm cách cao thế , vật liệu chịu lửa cao , alumin chất lượng cao , ... Có thể nói , trong thế kỷ 21 ngành sản xuất nhôm oxyt kỹ thuật nung đã hoàn toàn từ bỏ các công nghệ truyền thống của thập niên 80.



Với công nghệ mới , giá thành sản phẩm nhôm oxyt nung siêu sạch , siêu mịn không đắt hơn nhiều so với nhôm oxyt kỹ thuật dạng g - Al 2 O 3 truyền thồng. Bởi thế , bây giờ sản phẩm nhôm oxyt kiểu mới đã trở nên nguyên liệu phổ thông cho ngành công nghệ gốm kỹ thuật và vật liệu chịu lửa , bê tông gốm.



Để sản xuất nhôm oxit a - Al 2 O 3 ( corun ) dùng cho làm ra các mặt hàng gốm kỹ thuật và nguyên liệu chịu lửa cao cấp , các cơ sở trong nước ta cần định hướng theo công nghệ đương đại của các nước đã làm , đó là nung kết tủa từ chế phẩm trung gian keo gel Al 2 ( OH ) 3 để thu được các dạng nhôm oxit kỹ thuật nung siêu mịn , siêu sạch , đạt độ chuyển hóa thành a - Al 2 O 3 ( corun ) trong sản phẩm nhôm oxit trên 95% ( chương trình quốc tế về chất lượng nhôm oxit kỹ thuật nung ).



Nhôm hydroxyt là sản phẩm trung gian để sản xuất nhôm oxit và nhôm sunfat. Nhôm hydroxyt thường được làm ra từ quặng boxit theo công nghệ Bayer với những bước cơ bản như sau:



- đập vụn , sấy và nghiền mịn quặng



- phối trộn với dung dịch NaOH đặc



- hòa tách trong nồi hấp ở nhiệt độ và áp suất cao trong vài giờ



- rửa tách bùn đỏ ( gồm các hợp chất sắt , titan , silic , ... )



- lọc dung dịch aluminat , khuấy trộn dung dịch này vài ngày trong thiết bị phân giải , tách nhôm hydroxyt kết tủa.



Sản phẩm nhôm hydroxyt dạng gel có thể được xử lý nhiệt để tạo ra các sản phẩm Al 2 O 3 kỹ thuật tuỳ theo nhiệt độ xử lý.



Ở nước ta chỉ có độc nhất vô nhị nhà máy hóa chất Tân Bình tại thành thị Hồ Chí Minh có dây chuyền làm ra nhôm hydroxyt , với công suất ổn định ngày nay là 11.000 tấn/năm. Nhà máy sử dụng quặng tinh từ khu mỏ Trại Mát , bảo Lộc. Vật liệu boxit này có nguyên lai bơsmit và hàm lượng Al 2 O 3 khá cao ( khoảng 47 % ) , tuy nhiên hàm lượng Fe 2 O 3 và SiO 2 cũng khá lớn , đặc biệt là Fe 2 O 3 . Phần ưu tú của loại boxit này là ngậm nước nên mềm , dễ gia công. Công nghệ làm ra nhôm hydroxyt được vận dụng tại nhà máy Tân Bình là công nghệ Bayer.



Sản phẩm nhôm hydroxyt của nhà máy hóa chất Tân Bình đạt chất lượng như sau:



Al 2 O 3 : min. 63%



Na 2 O : max. 0 , 2%



Hàm ẩm : max. 13%



Do những giữ lại như hàm ẩm , lượng kiềm dư cao , cỡ hạt thô , ... Cần phải sản phẩm nhôm hydroxyt của nhà máy Tân Bình chẳng thể dùng cho gốm kỹ thuật và vật liệu chịu nhiệt. Chất lượng nhôm hydroxyt của Tân Bình còn thấp hơn so với sản phẩm nhập từ Trung Quốc.



Nhôm sunfat Al 2 ( SO 4 ) 3 ( phèn nhôm ) được sử dụng chính yếu để xử lí nước tại các nhà máy nước hoặc các hộ gia đình. Nhôm sunfat thường được làm ra từ nhôm hydroxyt và axit sunfuric.



hiện nay nhà máy hóa chất Tân Bình sản xuất các sản phẩm nhôm sunfat cấp 15% Al 2 O 3 và 17% Al 2 O 3 , cũng như các sản phẩm nhôm kali sunfat và nhôm amoni sunfat.



Những năm dĩ vãng , nhiều cơ sở sản xuất phèn ở phía Bắc như Phú Thọ , Đức Giang , Hải Dương đã dùng cao lanh để sản xuất phèn nhôm ( bằng biến hóa với axit sunfuric ) dùng cho mục tiêu xử lý nước và phèn tinh chế dùng trong làm ra giấy. Nhưng chất lượng sản phẩm phèn nhôm theo phương pháp sản xuất này rất thấp vì lẫn nhiều tạp chất và dư axit. Đến nay , do có nguồn nhôm hydroxyt của nhà máy hóa chất Tân Bình nên phần lớn các cơ sở trên đã dùng nhôm hydroxyt để làm ra phèn thay cho cao lanh , nhờ đó tăng chất lượng sản phẩm , giảm mất mát axit và giảm lượng bã thải.



IV. TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG



1. Nhu cầu thị tr ư ờng



Nước ta nằm trong khu vực ấn độ dương có nhu cầu nhập cảng nhôm vào loại lớn nhất trên thế giới. Hàng năm các nước ASEAN , Nhật Bản , Hàn Quốc , Đài Loan phải nhập trên 4 triệu tấn nhôm , Trung Quốc và Nga nhập 3-4 triệu tấn alumin để điện phân nhôm. Với vịt bầu địa lý thuận lợi và mối giao tiếp kinh tế truyền thống , đây là thịt khu vực ấn độ dương tiềm tàng cho các sản phẩm nhôm của nước ta.



Nhu cầu về sản phẩm nhôm trong nước ta hiện tại cũng khá lớn , mỗi năm nước ta nhập khoảng 70.000 tấn nhôm kim khí. Dự báo nhu cầu nhôm trong những năm tới sẽ như sau:



Dự báo nhu cầu nhôm đ ến 2015



Chủng loại

2005

2010

2015



Nhôm thỏi

60.000

80.000

100.000



Nhôm hình

39.000

65.000

80.000



Nhôm tấm , lá

29.500

35.000

40.000



Các loại khác

10.050

15.000

20.000



tổng cộng

138.550

195.000

240.000











Về nhôm oxyt , nhu cầu nước ta bây giờ như sau:



chuye sử dụng Nhu cầu bây giờ ( tấn Al 2 O 3 /năm )



nguyên liệu xây dựng 450 - 500



nguyên liệu chịu lửa 1900 - 2300



Thủy tinh 500



Gốm sứ 150 - 200



Tổng cộng 3000 - 3500 tấn



Dự báo , sau năm 2005 chỉ riêng nhu cầu nhôm oxyt kỹ thuật dùng cho công nghiệp silicat ( bao gồm các ngành sao thủy , gốm sứ , gốm kỹ thuật , vật liệu chịu nhiệt ) sẽ tăng lên đến 15.000 - 20.000 tấn /năm. Ví như tính cả tới nhu cầu của các ngành khác , nhất là khi Việt Nam thực hiện chiến lược phát triển ngành công nghiệp luyện nhôm , thì triển vọng thịt thà của ngành sản xuất và cung cấp nhôm oxit kỹ thuật trong mai sau là rất lớn.



Nước ta cũng có nhu cầu lớn về sản phẩm phèn nhôm , ngoài ra phèn nhôm còn có xác xuất được xuất cảng sang một số nước trong khu vực ấn độ dương. Năm 2001 , công ty Hóa chất cơ bản Miền Nam đã xuất được 1500 tấn phèn nhôm.



2. Tình hình ngành Công lao nhôm ở một số n ư ớc



Những nước và khu vực có nhiều quặng boxit là các nước Địa Trung Hải của châu Âu như Pháp , Italia , Nam Tư , Rumani , Hy Lạp , và một số nước châu Âu khác như Hungari , Nga , Cadăctan. Những mỏ boxit lớn nhất thế giới nằm ở các nước châu Mỹ như Hoa Kỳ , Guyana , Haiti , Giamaica. Các nước như ấn Độ , Trung Quốc , Auxtralia , Gana , Camơrun , Modămbich , Madagasca , Thổ Nhĩ Kỳ , Inđônexia , ... cũng có những mỏ boxit lớn.



hiện tại , trên thế giới có khoảng 20 nước khai khẩn boxit , 25 nước làm ra alumin và 40 nước sản xuất nhôm bằng biện pháp điện phân. Năm 2000 , tổng sản lượng các sản phẩm đó trên toàn thế giới như sau:



- boxit : 135 triệu tấn



- alumin : 52 , 8 triệu tấn



- nhôm : 24 , 4 triệu tấn

Những nước sản xuất boxit , alumin và nhôm quy mô lớn trên thế giới bây giờ là ( sản lượng năm 2000 , triệu tấn ):



Nước

Boxit

Alumin

Nhôm



Australia

52 , 34

15 , 681

1 , 769



Mỹ

0

4 , 786

3 , 668



Trung Quốc

8 , 00

4 , 330

2 , 820



Braxin

13 , 84

3 , 743

1 , 271



Jamaica

11 , 30

3 , 640

0



Nga

4 , 0

2 , 890

3 , 274



Ấn Độ

6 , 67

2 , 100

0 , 665



Surinam

3 , 80

1 , 900

0



Vênêzuêla

4 , 70

1 , 750

0 , 571



Ucraina

0

1 , 360

0 , 104



Canada

0

1 , 200

2 , 373



Cdăcxtan

3 , 73

1 , 200

0



Tây Ban Nha

0

1 , 100

0 , 366



Italia

0

1 , 023

0 , 189



Đức

0

1 , 000

0 , 644







Như vậy , Australia hiện đang đứng đầu thế giới về sản lượng boxit ( chiếm 40 % sản lượng thế giới ) và alumin ( chiếm 30% ) , đứng thứ năm thế giới về sản lượng nhôm.



Những nước làm ra nhôm đầu tiên thế giới là Mỹ , Nga , Trung Quốc , Canađa , Braxin và Na Uy , với sản lượng nhôm đạt từ 1 đến trên 3 , 5 tỷ tấn.



3. Tình hình khai thác quặng nhôm và sản xuất nhôm tại một số n ư ớc châu Á



Ấn Đ ộ:



Trữ lượng boxit của Ấn Độ là 2 , 7 tỷ tấn , phần lớn nằm ở bờ biển phía Đông.



Nhu cầu về các sản phẩm nhôm của ấn Độ đang càng ngày càng tăng , một phần do xu hướng chuyển sang dùng các vật liệu nhôm thay cho các nguyên liệu gỗ để gác canh môi trường . Trước kia Ấn Độ phải nhập nhôm kim loại , nay đã tự đáp ứng được nhu cầu bằng sản xuất trong nước và đã xuất biên nhôm có lãi.



Trung Quốc:



Trung Quốc có cộng tất cả lại khoảng 300 mỏ boxit , tập trung ở các tỉnh Shanxi , Guizhou và Henan , nhưng ngoài ra cũng còn có ở Hebei , Shandong và Sichuan. Phần lớn lượng boxit xuất cảng của Trung Quốc được khai khẩn tại Shanxi và Guizhou.



Mỗi năm Trung Quốc làm ra khoảng 4 , 5 triệu tấn boxit ( kể cả đất thó chịu lửa ) , trong số đó khoảng 3 triệu tấn được cung Đem cho thịt thà nội địa , còn 1 , 2 đến 1 , 5 triệu tấn được xuất biên ra nước ngoài. Ngoài boxit khai thác cho công nghiệp luyện nhôm , Trung Quốc còn làm ra ba loại boxit phi luyện kim là : boxit làm vật liệu chịu lửa , boxit làm vật liệu mài và boxit làm vật liệu que hàn.



Sản lượng boxit phi luyện kim của Trung Quốc đạt khoảng 3-3 , 6 triệu tấn , trong số đó gần một nửa được xuất cảng. Trung Quốc là nước đứng đầu thế giới về xuất cảng boxit dùng làm vật liệu chịu nhiệt. Ngày nay , chỉ riêng xuất biên boxit loại này của Trung Quốc đã lên đến khoảng 1 triệu tấn / năm , chiếm 70 % thịt thà thế giới.



Trước thập niên 1980 , xuất cảng boxit của Trung Quốc còn ở mức rất khiêm tốn , cốt tử là xuất sang Nhật Bản. Sau khi tiến hành đổi mới kinh tế và mở cửa ra thịt quốc tế , sản lượng boxit của Trung Quốc đã ngày một tăng và lôi cuốn sự để ý của các thịt thà ngoại bang. Từ đó đến nay , Trung Quốc đã chiếm lĩnh thịt thà boxit quốc tế và trở thành nhà cung ứng boxit quan yếu trên thế giới.



V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ



Nước ta có nguồn vật liệu chứa nhôm rất dồi dào , trữ lượng lớn , bởi vậy quốc gia cần có một chiến lược phát triển ngành công nghiệp nhôm một cách hết thảy. Cần đa dạng hóa các sản phẩm chứa nhôm vì hiện nay ở nước ta chỉ có Nhà máy Hóa chất Tân Bình là làm ra nhôm hyđroxyt phục vụ người ốm chính yếu cho làm ra phèn nhôm. Các sản phẩm nhôm khác rất cần cho các ngành Công lao khác nhau như: oxyt nhôm kỹ thuật dùng cho ngành vật liệu chịu lửa với nhu chuồng xí thụ hàng năm khá lớn , oxyt nhôm hoạt tính dùng ngành dầu khí , bột nhôm hoặc các sản phẩm chứa nhôm khác v.v... , nhưng trong nước chưa làm ra được. Vì thế triển vọng phát triển ngành công nghiệp nhôm là khá lớn , nhà nước nên xem xét để đầu tư một cách có hiệu quả nhất.



Do điều kiện đặc thù của nước ta bây giờ là nguồn điện còn giữ lại , giá điện cao , Công lao nhôm của nước ta nên đi theo hướng phát triển là khai thác boxit , làm ra alumin quy mô lớn để xuất khẩu , tiến tới sản xuất các hợp chất nhôm khác , song song khi có điều kiện về thủy điện thì dành một phần nguồn điện này để xây dựng các nhà máy điện phân nhôm nhằm đáp ứng một phần nhu cầu nhôm kim loại trong nước.



dự án boxit Lâm Đồng đang được khai triển là điều kiện tiện lợi quan trọng cho sự phát triển của ngành Công lao nhôm. Nhưng chúng ta phải song song xây dựng cơ sở nội lực về khoa học công nghệ , xây dựng đội ngũ công nhân , cán bộ có đủ trình độ để có khả năng tiếp thụ khoa học công nghệ mới , đáp ứng được các yêu cầu đa dạng và nghiêm nhặt của quá trình đầu tư và sản xuất.



chúng ta cũng cần khai thác tối đa và bổ khuyết các Cuối cùng nghiên cứu dĩ vãng , để làm cơ sở cho giai đoạn nghiên cứu tiếp theo một cách thực sự khách quan và chuẩn xác.



Vấn đ ề khai khẩn tận thu các nguyên tố hiếm từ quặng boxit



Theo số liệu phân tích , quặng boxit Việt Nam có hàm lượng gali làng nhàng là 38g , còn hàm lượng vanađi là 757 g V 2 O 5 / tấn tinh quặng.



Trong làm ra alumin cũng như trong các dự án lớn về sản xuất-chế biến nhôm ở nước ta , hiện nay chưa đặt Sự tình khai thác tận thu các nguyên tố hiếm trên trong quặng boxit. Trong lúc đó , các cơ sở sản xuất na ná ở nhiều nước khác đều có khâu khai khẩn các nguyên tố này. Việc thu hồi đất đai gali và vanađi trong quá trình làm ra nhôm và các hợp chất của nó đã được nghiên cứu triển khai có kết quả ở nhiều nước. Trong điều kiện bây giờ , việc khai triển công nghệ và kỹ thuật khai khẩn các nguyên tố hiếm từ quặng boxit là tuyệt đối khả thi. Quy trình công nghệ đã được hoàn thiện , thiết bị không quá Rắc rối , nhưng ở Việt Nam chưa có cơ sở nào tiến hành Học hỏi thử nghiệm và khai triển. Giá của gali trên thịt thà thế giới là 1600 USD/kg , còn giá của V 2 O 5 là 4-6 USD/kg , nếu không tận dụng khai thác các nguyên tố hiếm này thì sẽ rất phí phạm. Bởi thế nhà nước nên có đầu tư Học hỏi khai triển cho khu vực này và cần tiến hành ngay để có thể đón đầu khi chúng ta bắt đầu làm ra alumin và nhôm quy mô lớn.



Việc tận thu các nguyên tố hiếm trong sản xuất các hợp chất nhôm Hữu ý nghĩa lớn về nhiều mặt :



- góp phần hạ giá thành sản phẩm chính



- khai thác tiết kiệm và hợp lý tài nguyên tự nhiên



- thu được những sản phẩm đặc biệt quý hiếm sử dụng cho những ngành công nghệ cao như bán dẫn , điện tử , chế tác hợp kim , xúc tác , ...



- giảm lượng chất thải độc hại vào môi trường